CẤU TRÚC CON NGƯỜI
CẤU TRÚC CON NGƯỜI
MỤC TIÊU:
1. Thấu hiểu cội nguồn cuộc sống theo góc nhìn Tôn Giáo (tín ngưỡng) là gì
2. Cho người ta thấu hiểu nội tâm là gì.
3. Cho người ta thấu hiểu tánh người. (THAM TƯỞNG là trọng điểm)
3. Sự Chân Thật: Nâng tầm nhận thức nội tâm của con người lên tầng bậc 3, khai mở tiệm cận tầng bậc 4.
4. Nhân - Quả (Nguyên Lý Hoạt Động của Tiềm Thức) Nghe–Thấy–Nói–Biết nó huân tập vào tiềm thức
⇒ Chọn lựa Tổng Nghiệp tốt, kiến tạo Nhân Tốt, Duyên Lành để có Quả Như Ý.
5. Tích tạo Công Đức Phước Đức - Kiến tạo cuộc sống vật chất đủ đầy
Bạn xác lập động cơ chia sẻ, chọn trong những mục tiêu trên theo mong muốn.
Cấp bách nhất là TÌM VỀ SỰ CHÂN THẬT
Cấp bách 2 là CHO HIỂU TÁNH NGƯỜI - TRỌNG ĐIỂM THAM TƯỞNG
Có thêm thời gian thì nói cho HIỂU NHÂN QUẢ (thay Nhân đổi Quả)
TRỌNG ĐIỂM
Quảng Bá tầm quan trọng của tri thức Cấu trúc con người:
Là một trong ba hệ quy chiếu quan trọng của cuộc đời - Giải thích cội nguồn cuộc sống bắt nguồn từ đâu theo góc nhìn của tôn giáo
Là một loại hiểu biết để giúp con người khai mở trí tuệ
Mở ra cánh cửa nhân sinh của con người
Lý giải mọi nghi vấn trong cuộc sống của một người
Hiểu và giúp cho con người tìm về sự chân thật nơi chính mình, thuận duyên nhận được sự chân thật nơi chính mình.
Vẽ và hiểu về cấu trúc con người
Hiểu 16 tánh người. Tham và tưởng là trọng điểm của tánh người, cái tôi của con người
Hiểu về tánh không của nội tâm
Hiểu ba khối công đức, ác đức, phước đức
Hiểu về tổng nghiệp: Thức , duyên, quả.
Hiểu và thấu suốt vật chất, không gian, thời gian
Hiểu chính nhận thức nội tâm quyết định TTRĐĐTNT => TSRĐNL => Trãi nghiệm nhân sinh quan, thế giới quan, vũ trụ quan.
Thay nhân quá khứ, đổi quả hiện tại, để kích được quả tương lai tốt
MẬT MÃ
1: Sự chân thật
1: Ý
4: Nghe - Thấy - Nói - Biết
16: 16 tánh người
84.000: Bong bóng ảo giác
4: Thân tứ đại
1: Vi biệt nghiệp
3: Ác đức - phước đức - công đức
5: Sân si - Tà dâm - Oán trách - Ngạo mạn - Chấp kiến
1: Tổng nghiệp
3: Thức - Duyên - Quả
1: Nguyên lý vận hành tiềm thức
4: Nhận thức nội tâm - TSRĐ ĐTNT - TSRĐNL - (Nhân sinh quan, Thế giới quan, Vũ trụ quan)
0: Tánh không nội tâm
3: Vật chất - Không gian - Thời gian
5: 5 Tầng bậc trí tuệ
SƯỜN BÀI CHIA SẺ
Văn hoá (Nghi Thức - Nghi Lễ) (Đọc trên bản 15 Khái Niệm Nguồn phần số XII)
Gọi Tổng Nghiệp: “Rất là biết ơn…” (Quý Thầy Cô, các anh chị cùng các bạn, tri thức…)
Lưu ý: Lúc chia sẻ thì mình xưng tên (“Tên+ rất là biết ơn…”)
Quảng bá tri thức (Vì sao đây là tri thức tuyệt quý?, Tri thức này đã giúp điều gì cho mình? (người chia sẻ tự chọn theo mong muốn) - ĐÒN BẪY TRI THỨC
Khái niệm Sự Chân Thật (định nghĩa, ví dụ, câu chuyện Loài Người & Loài Yêu)
Vẽ + Gọi Tên đồ hình Cấu Trúc Con Người
CHỌN mục tiêu trọng điểm chia sẻ
Ứng dụng tri thức này vào khía cạnh nào trong cuộc sống (tâm đắc)
Đúc kết trọng điểm của phần chia sẻ.
KẾT THÚC PHẦN CHIA SẺ:
Biết ơn Thầy Ơn Thầy Cô và các anh chị, rồi xin ý kiến xây dựng từ Thầy Cô.
“Mưa lúc nào cũng có, cây nào có rễ thì thấm hút.”
SƠ ĐỒ KHÁI NIỆM NGUỒN
SỰ CHÂN THẬT (Khái niệm)
CẤU TRÚC CON NGƯỜI - vẽ đồ hình
Cho họ biết được bên trong con người có cái gì
Ý Nghe - Ý Thấy – Ý Nói – Ý Biết là Sự Chân Thật được bao bọc bởi lớp Điện Từ Quang
Tại sao gọi đây là Sự Chân Thật? Lý giải dựa trên khái niệm đã nêu ra trước đó.
16 Tánh Người được bao bọc bởi lớp điện từ Âm Dương
→ Vậy thì cái Tính Cách hay “Cái Tôi" của con người hình thành thế nào?
Lớp Tình: 8 Muôn 4 Ngàn Bong Bóng Ảo Giác ~ Cảm Xúc của con người
Thân: được cấu tạo bởi những yếu tố gì và được bao bọc bởi lớp điện từ Âm Dương.
Gọi Tên theo Dân Gian - Khoa Học - Nhà Phật
⇒ Vừa vẽ vừa lý giải thuật ngữ. (Vẽ và lý giải 5-7p)
NỘI TÂM của con người là gì?
Vật chất hoá Nội Tâm (Tâm - Tánh - Tình)
Thông điệp truyền tải thì con người phản ứng thế nào?
Dùng Tình để đối đãi
Dùng Tánh để phân tích phân biệt
Dùng Tâm để đón nhận
→ Dùng Tâm để đón nhận là trạng thái Tánh Không của Nội Tâm
16 TÁNH NGƯỜI
Giải nghĩa THỌ TƯỞNG HÀNH THỨC TÀI SẮC DANH THỰC THUỲ THAM SÂN SI MẠN NGHI ÁC KIẾN
Biên độ dao động của 16 Tánh Người
→ Tham Tưởng là trọng điểm
(Tới đây thì người nghe sẽ có khái niệm Âm Dương)
5. 3 KHỐI ĐIỆN TỪ (Ác Đức - Phước Đức - Công Đức)
Phân tích về 3 Khối Điện Từ được tích tạo như thế nào.
Ảnh hưởng đến đời sống con người như thế nào.
(Mượn góc nhìn của Dân Gian và Tôn Giáo để nói cơ bản trước.)
6. PHÂN TÍCH VAI TRÒ CỦA 3 KHỐI ĐIỆN TỪ (Mượn tri thức Khoa Học)
Tần số rung động năng lượng
Trạng thái rung động điện từ của nội tâm
→ Quyết định trải nghiệm của một người về Nhân Sinh Quan, Thế Giới Quan và Vũ Trụ Quan như thế nào.
→ Dẫn chứng tri thức VẬT CHẤT - KHÔNG GIAN để thay đổi nhận thức của Người Nghe. (Tới chỗ này thì họ mới hiểu vai trò của Công Đức Phước Đức ảnh hưởng toàn diện đến cuộc đời con người như thế nào. (Nói tới đây chưa vội viết Nhận Thức Nội tâm, nếu có viết thì nói vài bữa học sau, không để tới đó bữa sau viết thêm).
7. TỔNG NGHIỆP THỨC – DUYÊN – QUẢ
Nói đến Tổng Nghiệp Thức Duyên Qủa
→ Dẫn qua tri thức Nguyên Lý Vận Hành Của Tiềm Thức
→ Nói về khái niệm Thời Gian (Không còn khái niệm về Thời gian Quá khứ - Hiện tại - Tương lai nữa.)
Đổi ở bên trong thì tích tắc là đổi nếu đủ khối điện từ Dương và Cân bằng, không còn cần thời gian để đổi nữa.
Nói tới đây thì mới nói Cội nguồn Cuộc sống theo góc nhìn Tôn giáo Tín ngưỡng là gì được.
Nguyên lý Vận hành của Tiềm thức là cái cuối cùng.
Lưu Ý:
Trước khi chia sẻ Cấu Trúc Con Người. Phải làm rõ khái niệm Sự Chân Thật trước.
“Khai thị con người ngộ nhập Phật tri kiến” - giúp cho con người nhận lại sự chân thật, Phật tánh nơi chính họ. Ngộ là trong người có sự Chân Thật trong chính mình.
DẪN NHẬP:
(Chung cho cả 3 hệ quy chiếu) Chúng ta đã biệt, cuộc sống hiện tại của chúng ta là kết quả được tạo dựng bởi nhân trong quá khứ, và hiện tại của chúng ta chính là nhân của cuộc sống trong tương lai.
Vậy thì chúng ta thay đổi hiện tại tức là đang thay đổi cái nhân sẽ tạo nên quả cho tương lai. Nói cách khác, chúng ta muốn có tương lai như ý thì buộc chúng ta phải thay đổi nhân hiện tại. Và chỉ khi con người biết được cội nguồn cuộc sống của họ bắt nguồn từ đâu thì họ mới có thể đổi được cái nhân từ đó sẽ đổi được cái quả.
Thông qua 3 góc nhìn đó là Đạo lý – Tôn giáo (Tín ngưỡng) – Khoa học với 3 hệ quy chiếu là Tam giác hiện thực – Cấu trúc con người – Công thức cội nguồn cuộc sống sẽ giúp chúng ta thấu hiểu được cội nguồn cuộc sống của con người bắt nguồn từ đâu – gồm những nhân gì để tạo nên quả. Từ đó con người sẽ biết cách kiến tạo nhân tốt – duyên lành để hặt hái quả như ý cho cuộc sống.
Chúng ta cùng tìm hiểu một trong ba hệ quy chiếu quan trọng đó là Cấu trúc con người. Đây là một hệ quy chiếu theo góc nhìn của Tôn giáo (tín ngưỡng) mượn tri thức của nhà Phật để hiểu về Cấu trúc con người, từ đó tìm ra cội nguồn - gốc rễ - hay nhân của cuộc sống con người theo góc nhìn này là gì?
ĐỊNH NGHĨA
Truớc khi tìm hiểu về cội nguồn cuộc sống bắt nguồn từ tôn giáo tín ngưỡng thì có 1 thuật ngữ cần làm rõ đó là CHÂN THẬT.
Theo các anh chị thì chân thật là gì? Các anh chị biết rồi thì từ từ, các anh chị chưa biết thì trả lời giúp - chân thật là gì.
⇨ Theo sự chỉ điểm của các cao nhân thì: Sự Chân thật là những gì không thay đổi qua không gian và thời gian.
NÊN LÀ HIỆN TẠI MỌI NGƯỜI Á, BỊ ĐỒNG HOÁ CÁC KHÁI NIỆM CHÂN THẬT, VỚI CÁC KHÁI NIỆM CỦA THẬT GIẢ
VD:
Nhà có thay đổi không không?
Thân này có thay đổi không?
Tình yêu có thay đổi không?
Suy nghĩ của con người có thay đổi không? Có, suy nghĩ thì không chân thật
Nhà của mình ở, qua thời gian nó đổi, có thay, nên cũng không chân thật. Ngôi nhà không chân thật, nhưng không được quyền nói nó không có thật. (vì nó có hiện hữu)
Tình yêu của một người cũng thay đổi, nên cũng không chân thật.
Hầu như cái gì cũng có sự thay đổi hết.
Tại Sao Rất Khó Tìm Được Cái Sự Hạnh Phúc. Vì Sao Con Người Rất Khó Tìm Đc Cái Sự An Vui?
LÀ BỞI VÌ MỌI CÁI TRONG XÃ HỘI CÓ CÓ SỰ BIẾN ĐỘNG HẾT, THAY ĐỔI HẾT.
Thông thường CHÚNG TA ĐANG BÁM CHẤP VÀO NHỮNG CÁI KHÔNG CHÂN THẬT, bám trụ vào hôn nhân gia đình, sự nghiệp, vật chất, và dựa vào nó để làm thước đo cho cuộc đời của mình.
Cái gì mình nghĩ đến nó cũng thay đổi, ngay cả ý nghe ý thấy ý nói ý biết...ai cũng có niềm tin tuyệt đối rằng cái gì trên cuộc đời này cũng thay đổi. Thì mình nói cho họ biết một cái không thay đổi đó là sự chân thật.
Nên nếu muốn cân bằng lại cuộc sống thật sự thì chúng ta phải bám trụ vào đươc sự chân thật thi chúng ta mới có cuộc sống cân bằng được.
Hiện tại những gì họ bám trụ, là đang bám trụ vào những thứ thay đổi không chân thật. Nếu họ hướng ra bên ngoài, thì mãi mãi không có gì chân thật hết.
Bên trong chúng ta có sự chân thật hay không?
CÂU CHUYỆN LOÀI NGƯỜI VÀ LOÀI QUỶ
Loài yêu với loài người, có mâu thuẫn với nhau nên gây ra cái chiến tranh, cuối cùng qua thời gian thì loài người đã thắng thế, dồn ép loài yêu phải biến khỏi loài người, không còn xuất hiện trước mặt con người nữa.
Trước khi đi để báo thù cho cái sự dồn ép đó, thì có một con yêu nó nói, “Bây giờ, trước khi đi, mình hãy lấy đi CÁI QUY GIÁ NHẤT của con người, cái sự chân thật của con người đi, mình đi dấu đi”
tại vì nếu lấy đi sự chân thật, thì con người chỉ còn bám trụ được vào những cái gì thay đổi thôi. Mà đã bám vào cái sự thay đổi, thì mãi mãi sẽ mất đi cái sự an vui và hạnh phúc thật sự mọi cái đều là giả tạm.
Thì một con yêu nó nói là: “Vậy thì mình dấu nó ở biển sâu đi”
Con yêu khác nó nói: “không được! Họ cũng cúng sẽ có những cái máy dò tìm, biển sâu rồi thì con ngươi cũng tìm tới được.”
Con yêu nữa thì nó nói: “Vậy thôi mình lấy sự chân thật mình dấu trên núi cao đi.”
Con yêu khác nó lắc đầu và nó nói: “Không, không, không, Núi Cao thì con người cũng leo tới thôi. (con người giỏi tìm kiếm mọi thứ bên ngoài mà)
“Vậy thì mình dấu trong rừng sâu đi.” - Một con yêu khác nó lên tiếng.
Thì một con yêu khác nó nói: “Rồi thì con người cũng sẽ tìm tới được thôi, bởi vì từ từ thì họ tạo ra công nghệ mà, họ có thể đi đến đó được. Rừng sâu rồi cũng đi tới thôi”
Suy nghĩ một hồi lâu, thì con yêu trưởng nó mới nói “tao biết chỗ dấu rồi, mình dấu tận sâu trong con người của con người ah, dấu sâu nhất, tận cùng sâu nhất trong con người, thì nếu con người đó tìm kiếm ở bên ngoài thì mãi mãi không bao giờ họ sẽ tìm được sự chân thật.”
Và tất cả đều nghe hợp lý. Nên trước khi loài yêu biến mất khỏi loài người, thì đã dấu Sự Chân Thật trong sâu thẳm mỗi con người
→ nên là nếu mà ai đó hướng ra ngoài để tìm kiếm, thì sẽ mãi mãi không bao giờ tìm được sự chân thật→ sẽ mãi rời xa an vui. Mà chỉ có quay về chính mình, tìm bên trong mình, thì chúng ta sẽ tìm được sự chân thật nơi chính mình.
Và khi và chỉ khi con người bám trụ vào sự chân thật nơi chính mình, là bám trụ vào cái không thay đổi đó đó, thì con người mới chính thức tìm về được sự an vui và hạnh phúc thật sự. HẾT
Nếu ai mà còn hướng ngoài thì mãi mãi rời xa sự chân thật, rời xa an vui và hạnh phúc.
Nhanh chóng tìm về sự chân thật nơi chính mình, bám trụ vào đó để đơn giản có được sự an vui và hạnh phúc.
Vậy thì sự chân thật ở đâu?
Như các anh chị đã từng biết qua về Nguyên Lý Vòng Tri Thức thì có thể kiến thức ngày hôm nay mà Toàn chia sẻ nó sẽ nằm trong vòng không biết-không biết của các anh chị. Nên chúng ta không vội phán xét tri thức này, cũng như ko vội phán xét trí não của mình. Mà chúng ta sẽ cùng nhau từ tốn tìm về Sự Chân Thật thông qua một cái đồ hình như sau.
CẤU TRÚC CON NGƯỜI: Hướng dẫn Vẽ Cấu trúc con người:
2.1 – Lớp trong cùng:
- Đâu tiên, chúng ta vẽ chữ Ý ở chính giữa tờ giấy (hình dung như đó là tâm của vòng tròn), xung quanh 4 góc trên – phải – dưới – trái ghi lần lượt các chữ NGHE - THẤY – NÓI – BIẾT.
- Vẽ tiếp 1 vòng tròn bao quanh và viết vào phía trong vòng tròn chữ ĐIỆN TỪ QUANG.
2.2 – Lớp thứ 2 lần lượt các vòng:
- Vòng thứ nhất, ngay sát bên ngoài vòng ĐIỆN TỪ QUANG, viết 4 chữ theo chiều kim đồng hồ: THỌ TƯỞNG HÀNH THỨC
- Vòng tiếp theo, lần lượt là TÀI SẮC DANH THỰC THÙY
- Vòng thứ 3 tiếp theo, lần lượt là THAM SÂN SI MẠN NGHI ÁC KIẾN
- Bao quanh bên ngoài là lớp điện từ âm dương, vẽ 2 đường gợn song đan xen, xoắn vào nhau, ghi chú ĐIỆN TỪ ÂM DƯƠNG.
2.3 – Lớp thứ 3 là lớp bong bóng ảo giác:
- Vẽ các hình tròn nhỏ bao quanh, tượng trưng cho 8 muôn 4 ngàn bong bóng ảo giác.
2.4– Lớp thứ 4:
- Ghi THÂN TỨ ĐẠI
- Bao gồm: ĐẤT (DINH DƯỠNG), NƯỚC, KHÍ, LỬA
- Ngoài cùng là lớp ĐIỆN TỪ ÂM DƯƠNG
* Mỗi vòng sử dụng các màu sắc khác nhau để vẽ và viết chữ.
GỌI TÊN CÁC LỚP TRONG CẤU TRÚC CON NGƯỜI:
Theo cách gọi của DÂN GIAN:
Cấu trúc con người từ trong ra ngoài gồm: TÂM – TÁNH – TÌNH – THÂN.
- Tâm: là cái Ý chứa NGHE THẤY NÓI BIẾT được bao bọc bởi điện từ quang (là lớp nằm trong cùng)
- Tánh: có 16 tánh người THỌ TƯỞNG HÀNH THỨC TÀI SẮC DANH THỰC THÙY SÂN SI MẠN NGHI ÁC KIẾN, được bao bọc bởi điện từ âm dương.
- Tình: là 8 muôn 4 ngàn bong bóng ảo giác
- Thân: là thân tứ đại - gồm 4 yếu tố lớn tạo nên trái đất - ĐẤT NƯỚC KHÍ LỬA. Bao bên ngoài lớp Thân là điện từ Âm dương.
Theo cách gọi của KHOA HỌC: SỰ CHÂN THẬT – TÍNH CÁCH – CẢM XÚC – CƠ THỂ NGƯỜI.
- Sự chân thật: Là Ý chứa NGHE THẤY NÓI BIẾT được bao bọc bởi điện từ quang.
VẬY THÌ TẠI SAO Ý NGHE Ý THẤY Ý NÓI Ý BIẾT LÀ CHÂN THẬT?
Nhờ học viên phối hợp:
“Nhắm mắt lại các anh chị có thấy không?”
“Bịt tai lại thì có nghe gì không?”
LUÔN LUÔN THẤY NÓ KHÔNG CÓ THAY ĐỔI, NHƯNG MÀ THẤY CÁI GÌ THÌ NÓ ĐỔI.
Ví dụ như mình thấy cái này thấy cái kia, thấy cái nọ thì nó đổi, nhưng mà luôn luôn thấy là nó ko đổi
Ý THẤY, Ý THẤY LÀ KO THAY ĐỔI. HIỂU Ý THẤY LÀ KO THAY ĐỔI, CÒN THẤY CÁI GÌ THÌ NÓ THAY ĐỔI
Câu chuyện về Đức Phật và vua Ba Tư Nặc trên sông Hằng:
Một lần, khi Đức Phật cùng Vua Ba Tư Nặc đang trên bờ chờ thuyền đi qua sông Hằng, vua Ba Tư Nặc hỏi Đức Phật:
- Thưa ông Cồ Đàm, làm sao để trẫm thấy được sự chân thật bên trong chính mình?
Đức Phật mới hỏi vua Ba Tư Nặc:
- Này vua Ba Tư Nặc, năm nay nhà vua được bao nhiêu tuổi?
- Năm nay trẫm được 62 tuổi – vua Ba Tư Nặc trả lời.
- Trước đây vua có từng đi qua sông Hằng này không? – Đức Phật hỏi
Vua Ba Tư Nặc trả lời: Hồi 3 tuổi, trẫm được mẹ dẫn đi qua sông Hằng này đến đền Tỳ Bà Thiên, trẫm có nhìn thấy sông Hằng này.
- Vậy năm nay vua 62 tuổi, vua thấy nước sông Hằng này so với nước sông Hằng khi vua mới 3 tuổi có khác nhau hay không? – Đức Phật hỏi tiếp.
Vua Ba Tư Nặc đáp: Trẫm từ lúc 3 tuổi đến nay trẫm 62 tuổi thấy nước sông Hằng cũng như vậy, không khác nhau gì cả.
Đức Phật nói với vua Ba Tư Nặc:
- Vậy thân của vua lúc 3 tuổi so với bây giờ vua 62 tuổi có khác nhau không?
- Thân của trẫm lúc 3 tuổi so với nay 62 tuổi khác nhau rất xa – vua Ba Tư Nặc trả lời.
Đức Phật lại hỏi:
- Hồi 3 tuổi vua thấy dòng sông Hằng, nay vua đã 62 tuổi, vua có thấy dòng sông Hằng khác đi không?
Vua Ba Tư Nặc trả lời:
- Trẫm nhìn thấy dòng sông Hằng không khác nhau.
Lúc này, Đức Phật nói với vua Ba Tư Nặc rằng: Ở thế gian này, những gì có thay đổi là không chân thật, những gì không thay đổi là chân thật. Thân của vua có thay đổi là không chân thật. Còn tánh thấy nước sông Hằng, dòng sông Hằng của vua không biến đổi là tánh thấy chân thật của vua đó.
Vua Ba Tư nặc nói với Đức Phật:
- Như vậy trẫm biết rồi, tánh thấy của trẫm không thay đổi, chính là tánh Phật của trẫm đó. Cảm ơn ông Cồ Đàm đã chỉ cho trẫm biết tánh phật của chính mình.
- Tính cách: Là sự phức hợp mức độ cấp độ của 16 tánh người tạo nên tính cách của con người và tạo nên “cái tôi” của con người. “Cái tôi” là đại diện cho tinh cách mỗi người, mà ai cũng có tính cách riêng biệt nên ai cũng có “cái tôi”.
- Cảm xúc: Là 8 muôn 4 ngàn bong bóng ảo giác, Khoa học gọi tên được 34 ngàn cảm xúc khác nhau, có thể còn tìm thấy nhiều hơn các cảm xúc, ví dụ như vui vẻ, nóng giận,…
- Cơ thể người: Là thân tứ đại
Theo cách gọi của NHÀ PHẬT: PHẬT TÁNH – 16 TÁNH NGƯỜI – 8 MUÔN 4 NGÀN BONG BÓNG ẢO GIÁC – THÂN TỨ ĐẠI.
- Phật tánh (còn gọi là Chân tánh, Chân như, hay Chân tâm) – chính là cái Ý chứa NGHE - THẤY - NÓI - BIẾT được bao bọc bởi điện từ quang.
- 16 tánh người: THỌ - TƯỞNG - HÀNH - THỨC - TÀI - SẮC - DANH - THỰC - THÙY - SÂN - SI - MẠN - NGHI - ÁC - KIẾN được bao bọc bởi điện từ âm dương.
- 8 muôn 4 ngàn bong bóng ảo giác: hiểu là 8 mươi 4 ngàn bóng bóng ảo giác
- Thân tứ đại: ĐẤT NƯỚC KHÍ LỬA - tức là 4 nhân tố lớn cấu tạo nên thân người. Đất hay còn gọi là dinh dưỡng – nước – khí là gió – lửa là hơi ấm.
Nếu xét về cấu trúc bản thân con người chúng ta thì có 1 thuật ngữ là BÁT ĐẠI DUYÊN HỢP: Thông thường người ta nói tứ đại duyên hợp thì tạo nên thân. Nhưng mà bản chất thì ngũ đại duyên hợp mới tạo nên thân. Ngũ đại duyên hợp gồm Đất – Nước – Khí – Lửa – Điện từ. Nhìn tổng thể con người còn có Tâm – Tánh – Tình nữa. Vậy nên, thân của 1 con người có 8 yếu tố tạo nên (Tâm – Tánh – Tình – Đất – Nước – Khí – Lửa – Điện từ) gọi là Bát đại duyên hợp. Để mà gọi đúng về cấu trúc con người thì phải là Cửu đại duyên hợp, bởi vì thân cuả con người khi nói vô đến tâm thì phải có thêm điện từ quang, tức là điện từ còn phân ra thành 2 dạng - một là điện từ quang và 2 là điện từ âm dương, gọi là cửu đại duyên hợp. Thông thường khi nói thân mà không đến lớp tâm – tánh – tình thì sẽ là Đất – Nước – Khí – Lửa – Điện là ngũ đại duyên hợp.
=> Ngắn gọn lại, nếu gọi chung theo sức khỏe thì cấu trúc con người là BÁT ĐẠI DUYÊN HỢP, gồm:
- Tâm (An Vui)
- Tánh (Bao dung)
- Tình (Trân trọng – Biết ơn)
- Đất
- Nước
- Khí
- Lửa
- Điện
* Trong đó, 5 yếu tố Đất – Nước – Khí – Lửa thuộc phần Thân.
* Trong Điện từ, tách ra 2 loại là điện từ quang và điện từ âm dương, nên cũng có thể gọi cấu trúc con người là Cửu đại – 9 yếu tố cấu thành.
Khi bát đại cân bằng thì sẽ có sức khỏe tốt.
CÁCH GỌI CHUNG:
Làm sao để có cách gọi thống nhất về cấu trúc con người, làm sao để bất kỳ ai nghe cũng hiểu thấu, không có khái niệm tôn giáo, không có khái niệm khoa học, không có khái niệm gì hết để dễ tìm hiểu. dân gian là dễ gọi nhất – là Tâm – Tánh – Tình – Thân, nhưng cũng rất dễ nhầm lẫn. Nên cần có cách gọi để kiến tạo nên hình ảnh tâm trí. Theo đó, có thể gọi cấu trúc con người theo thứ tự từ trong ra ngoài là:
- Đầu tiên gọi là Sự chân thật nơi chính mình là đẹp nhất. Vì con người không phải ai cũng có mưu cầu tìm về Phật tánh nếu họ không theo đuổi tôn giáo, theo đuổi đạo Phật. Nhưng bất kì ai trong nhân loại này đều có mưu cầu tìm về sự chân thật nơi chính mình – tìm về những gì không thay đổi qua không gian và thời gian.
- Lớp thứ 2 là 16 tánh người. Vì khi nói về cấu trúc con người mà gọi 16 tánh người thì sẽ đơn giản để nhớ và gọi tên chính xác, rõ ràng, đó là tài – sắc – danh – thực – thùy – tham – sân – si – mạn – nghi – ác – kiến. Còn nếu gọi là cảm xúc hay tánh người thì mơ hồ. Nói 16 tánh người và gọi cụ thể tên từng tánh người ra thì rất rõ, để tạo hình ảnh tâm trí.
- Tiếp theo gọi là lớp Tình sẽ đơn giản, nếu gọi 8 muôn 4 ngàn bong bóng ảo giác mà cứ gọi mãi thì nó ảo giác quá.
- Đến lớp Thân tứ đại. Gọi như vậy để nhớ thân này được cấu tạo bởi tứ đại – 4 yếu tố Đất – Nước – Khí – Lửa. Nhớ như vậy để ăn uống cân bằng, khi cân bằng tứ địa thì sẽ có sức khỏe tốt.
⇨ Tóm lại, con người cấu tạo bởi bên trong là SỰ CHÂN THẬT (sự chân thật noi chính mình là cái Ý có chứa Nghe – Thấy – Nói – Biết được bao bọc bỏi điện từ quang). Bao quanh sự chân thật là 16 TÁNH NGƯỜI ( gồm Thọ - Tường – Hành – Thức – Tài – Sắc – Danh – Thực – Thùy – Tham – Sân – Si – Mạn – Nghi – Ác – Kiến) được bao bọc bởi điện từ âm dương. Tiếp theo là lớp TÌNH của con người chưa 8 muôn 4 ngàn bong bóng ảo giác. Tiếp nữa là lớp THÂN TỨ ĐẠI (gồm Đất – Nước – Khí – Lửa) được bao bọc bởi điện từ âm dương.
CÁCH GỌI CHUNG
Sự chân thật
16 tánh người
Tình
Thân tứ đại
16 TÁNH NGƯỜI:
Trong cấu trúc con người, lớp 16 tánh người được gọi tên bằng từ Hán Việt. Từ Hán Việt thường có nhiều ý nghĩa khác nhau, nhưng chúng ta tìm cái ý nghĩa gần nhất với cấu trúc con người, cụ thể:
THỌ: thu nhận vào
TƯỞNG: tưởng nhớ. tưởng tượng, liệu định
HÀNH: truy xuất ra
THỨC: ý thức, hiểu biết
TÀI: tiền tài, tài năng
SẮC: sắc thân, sắc tướng
DANH: danh tiếng
THỰC: ăn
THÙY: ngủ nghỉ
THAM: ham muốn
SÂN:giận dữ
SI: mê muội
MẠN: ngạo mạn
NGHI: hoài nghi
ÁC: tàn ác
KIẾN: cố chấp
Trọng điểm – Biên độ - Cấp độ của tánh người:
- Tham và Tưởng là trọng điểm của tánh người. Do tham và tưởng về Tài, tham và tưởng về Sắc, tham và tưởng về Danh, tham và tưởng Thực, tham và tưởng về Thuỳ, hay còn gọi là tham và tưởng về Tài, Sắc, Danh, Thực, Thuỳ mà quyết định mức độ, cấp độ của Sân, Si, Mạn, Nghi, Ác, Kiến; quyết định Thọ cái gì? - Hành thế nào? - Thức ra sao?
+ THAM nghĩa là ham muốn, hay còn gọi là mong muốn. Bản chất tham không có vấn đề, nhưng do hiện nay chúng ta đồng hóa Tham thành tham lam nên nói tham là xấu, là tệ. Thực chất, tham chỉ là mong muốn mà thôi. Con người luôn luôn ham muốn một cái gì đó – tham con mình trưởng thành, tham thấu hiểu chính mình,…. Ngay cả Đức Phật cũng có tánh Tham này – đó là tham phổ độ chúng sinh, tham khai thị con người ngộ nhập Phật tri kiến.
+ TƯỞNG: có 3 trạng thái của Tưởng - tưởng tượng (hiện tại), tưởng nhớ (quá khứ), liệu định (tương lai). Con người đặt cái tưởng về quá khứ thì tưởng nhớ, nhưng cái tưởng ở hiện tại thì người ta nói cái đó tưởng tượng; nhưng nếu đặt cái tưởng về tương lai thì người ta gọi đó liệu định. Ai ở đây có 1 cái liệu định trưa 12h mấy mình ăn cơm trưa không - thì chúng ta tưởng chưa? Tưởng cho sự việc chưa xảy ra thì là liệu định.
⇨ Con người mà không còn tham và tưởng nữa – tức là không còn ham muốn, mong muốn gì cho hiện tại, cho tương lai, không nhớ gì đến quá khứ thì không còn là con người nữa. Nên, Tham và Tưởng là trọng điểm của tánh người. Có thể là tham và tưởng về tài; tham và tưởng về Sắc, tham và tưởng về Danh, tham và tưởng Thực, tham và tưởng về Thuỳ hoặc tham và tưởng về cả Tài – Sắc – Danh – Thực – Thùy.
● Tham và tưởng về TÀI thì có thể theo 2 trường hợp là tiền tài tức là ham muốn kiếm tiền và tưởng là tương lai mình sẽ làm được cái này cái kia để kiếm tiền; tham và tưởng về tài với nghĩa tài năng như là học hết cái này cái kia để có tài năng…
● Tham và tưởng SẮC: gồm sắc thân, sắc tướng
-> Trọng sắc thân: coi trọng bản thân. Người sắc thân thì đó rất chú trọng chăm sóc bản than, cái gì gây ra sự tổn hại cho thân là họ sẽ không làm, tập thể dục ăn uống ngủ nghỉ đàng hoàng, cái gì đó quẹt lên đứt cái tay là thấy tổn tương khủng khiếp, rồi phải ăn sao cho nó tốt để cung phụng cho sắc thân, đi ra ngoài là phải chỉn chu, diện mạo phải đẹp đẽ, sang trọng…
-> Sắc tướng: hướng sự coi trọng ra không gian xung quanh. Người sắc tướng nhìn nhà dơ cái không chịu nổi, ăn mặc phải phù hợp – không chỉ mình mà yêu cầu cả với người xung quanh mình (sắc tướng thời trang), treo bức tranh bị lệch cũng không chịu được, sắc tướng ngôn ngữ thì muốn tròn vành rõ, nói đứng chính tả ngữ nếu không thì khó chịu, ngủ phải ngủ chỗ đẹp, êm (sắc tướng chỗ ngủ >< ngủ đâu cũng được - không sắc tướng chỗ ngủ), có người sắc tướng trong công việc làm việc phải chỉn chu….
● Tham và tưởng về DANH: mong muốn mình nổi tiếng hoặc mong muốn mình không nổi tiếng đừng ai biết đến mình (cũng là tánh danh theo chiều hướng vi tế lệ thuộc tham và tưởng)
● Tham và tưởng về THỰC: ăn phải ăn ngon thì mới được, có người thì ăn sao cũng được (không tham và tưởng về thực). Tánh thực thì giữ nguyên nhưng tham và tưởng gắn vô quyết định chúng ta hành xử sao với chuyện ăn.
● Tham và tưởng về THÙY không ngủ được, có người ngủ li bì ở các giai đoạn khác nhau, nếu cộng thêm sắc tướng nữa thì phải ngủ chỗ đẹp mới được. Hoặc có người bị bệnh gì k biết chỉ cần cho ngủ một đêm dậy là hết.
=> THAM và TƯỞNG về cái gì sẽ khởi tạo vòng ngoài theo chiều hướng nào, quyết định thọ cái gì, hành ra sao, thức thế nào. Do tưởng mà dẫn dắt mình đi. Một ý niệm của con người thôi có thể dẫn dắt con người đi xa hàng vạn dặm. Ngồi ở đây tưởng tới Mỹ thì nó dẫn mình qua Mỹ. Xã hội này dẫn dắt được người khác là do phù hợp tham tưởng nên dẫn dắt được; ai đó dẫn dắt chúng ta thì do phù hợp tham tưởng mà dẫn dắt thôi, nếu muốn dẫn dắt con cái giàu toàn diện thì làm con tham tưởng về giàu toàn diện, nếu không thì con cũng tham tưởng theo chiều hướng tệ, nếu không dẫn dắt con tham tưởng theo con đường sáng thì con cũng bị dẫn dắt theo con đường tối…
Biên độ dao động của tánh người: do cấu trúc của tánh người được bao bọc bởi điện từ âm dương nên là tánh người có những lúc lên lúc xuống, cũng tức là tánh người có biên độ dao động của nó, mức độ - cấp độ của các tánh THAM - SÂN - SI - MẠN- NGHI - ÁC - KIẾN từ thấp đến cao hay là từ âm đến dương.
- Tánh Tham: Mức độ - cấp độ thấp (âm) của tánh tham là tham lam - chỉ tham cho cá nhân mình; mức độ cấp độ cao (dương) là hào phóng – ham muốn cho người khác, cho chủ thể khác.
Ví dụ tham tài - mà tham cho cá nhân mình thôi thì bị đánh giá là tham lam, nhưng tham tiền cho người khác thì là hào phóng – lấy tiền cho người ta mà. Hay tánh tham thực là tham ăn – nếu tham cho cá nhân mình, ăn cho riêng mình, không ai giành ăn với mình được thì đó là tham lam; nhưng mình tham thực mà tham cho chủ thể khác, mình thích nấu ăn cho người khác ăn, hoặc tạo điều kiện cho mọi người ăn ngon nhất có thể thì đó được gọi là hào phóng.
Tham đừng nghĩ nó tệ, nó xấu, đó chỉ là ham muốn và có dao động từ âm sang dương, tham cho bản than mình là tham âm (tham lam), tham cho chủ thể khác là tham dương (hào phóng). Tham mà tham giúp đỡ người khác thì đâu có xấu. Nhưng có lúc cũng cần tham cho riêng bản thân mình. Người mà suốt ngày chỉ đi nghĩ cho người khác, chỉ lo giúp người người khác mà quên cả bản thân mình thì có phải sẽ được người khác khuyên nên nghĩ cho bản thân, cho chính mình một chút, hãy quay về yêu bản thân đừng chỉ có biết nghĩ cho người khác thôi. Đừng nghĩ hào phóng là tốt, quá hào phóng cũng không tốt. Mà nếu chỉ tham cho bản thân thôi không nghĩ cho ai thì cũng không được. Nên là có tham thì cũng phải dựa trên 4 động lực sinh tồn là cá nhân – gia đình – tổ chức và xã hội, cùng lúc tham cả 4 điều này.
- Tánh Sân: Mức độ cấp độ thấp (âm) của Sân là giận dữ, mức độ - cấp độ cao (dương) của Sân là Hài lòng.
Ví dụ tham và tưởng về thực là 12h trưa có bữa ăn ngon, do sáng có thấy vợ chuẩn bị thức ăn rồi. Khi về tới nhà, bụng đói meo mà không có món ăn nào hết, vợ thì đi vắng, thì lúc này cái tham và tưởng về thực cho chính mình, muốn mình được ăn ngon mà thực tế không giống như cái tham tưởng của mình. Lúc này tánh sân sẽ bị đẩy xuống cực âm – lúc đó sẽ sinh ra giận dữ.
Tình huống khác, ngày nào đó, vợ gọi điện nói trưa nay em phải ra ngoài có việc không nấu cơm nhà, anh tự lo mua gì đó ăn hoặc về tự nấu gì ăn đỡ. Lúc này tham tưởng đã rõ ràng là trưa nay phải tự lo chuyện ăn uống. Nhưng khi về nhà thì thấy vợ đã chuẩn bị sẵn 1 mâm cơm nhiều món ngon mà mình thích, còn viết giấy nhắn để lại nữa, nghĩa là thực tế vượt xa với mong đợi, vượt xa tham tưởng, tánh sân được đẩy lên dương, sẽ thấy hài lòng với vợ mình.
- Tánh Si: Mức độ cấp độ thấp (âm) của tánh Si là mê muội; mức độ cấp độ cao (dương) của tánh Si là sáng suốt.
- Tánh Mạn: Mức độ cấp độ thấp (âm) của tánh Mạn là Tự ti; mức độ cấp độ cao (dương) của tánh Mạn là Tự cao. Tự cao cũng không phải là tệ, thông thường hiện nay chúng ta hay đồng hóa khái niệm 1 người tự cao là tệ nên nghe nói tự cao thì thấy không dương lắm. Tự tin thì đứng ở giữa.
- Tánh Nghi : Mức độ cấp độ thấp (âm) của tánh Nghi là Nghi ngờ; mức độ cấp độ cao (dương) của tánh Nghi là tin cậy. Tin tưởng là ở giữa, không cao bằng tin cậy.
- Tánh Ác: Mức độ cấp độ thấp (âm) của Tánh Ác là Tàn ác; mức độ cấp độ cao (dương) của Tánh Ác là Lương thiện. Tánh người thì không nên đồng hóa với thuật ngữ của nó. Ác thì đại diện cho tàn ác, nhưng bản chất cái tánh con người thì có từ lương thiện đến tàn ác.
- Tánh Kiến : Mức độ cấp độ thấp (âm) của tánh Kiến là cố chấp; mức độ cấp độ cao (dương) của tánh Kiến là chấp nhận.
Khi các tánh này phức hợp với nhau sẽ tạo nên cung bậc cảm xúc, cung bậc tánh người. Có lúc thì tánh sân bị đẩy lên thế này, tánh si bị đẩy thế kia,.. nhưng đều bắt nguồn từ Tham Tưởng. Chính Tham Tưởng của con người là trọng điểm để khởi tạo các tánh còn lại theo chiều hướng nào. Thỏa mãn được tham tưởng thì con người sẽ đẩy được tất cả các tánh Tham – Sân – Si – Mạn – Nghi – Ác – Kiến theo chiều hướng dương; còn nếu không thỏa mãn được tham tưởng hoặc không dừng lại được thì bị đẩy xuống theo chiều hướng âm. Và chính tham tưởng của con người về Tài – Sắc – Danh – Thực – Thùy quyết định cái Thọ - Hành – Thức.
Ví dụ chúng ta tham tưởng về sức khỏe về sắc thân thì khi đó đọc 1 cuốn sách Y học sẽ khiến cái Thức được mở, cái Thọ sẽ đưa vào khiến cho chúng ta hiểu sâu hơn những kiến thức về sức khỏe – nghĩa là do cái tham tưởng mà chúng ta hấp thu tốt kiến thức, nếu không có tham tưởng thì sẽ không hấp thu tốt; rồi cái Hành là truy xuất ra.
Con người có biên độ dao động về tánh. Bản chất Tài – Sắc – Danh – Thực – Thùy hay Thọ - Tưởng - Hành – Thức không có điện từ âm hay dương mà do cái Tham cộng vào nên mới quyết định điện từ âm dương và khi đó sẽ khởi tạo Sân – Si – Mạn – Nghi – Ác – Kiến theo chiều hướng nào.
Quan sát trong xã hội sẽ thấy đa phần những người lao động tầng thấp sẽ dùng cái này nhiều, thường đẩy theo chiều hướng âm nhiều, bởi vì tham tưởng của họ về Tài – Sắc – Danh – Thực – Thùy không đạt nên họ đẩy theo chiều hướng âm. Còn những người thành công, thành đạt trong cuộc sống thì tham tưởng về Tài – Sắc – Danh – Thực – Thùy họ đẩy theo chiều hướng dương. Những người trí thức, giới chuyên về nghiên cứu, về học thuật thì tham tưởng được đẩy theo hướng Thọ - Tưởng – Hành – Thức, theo chiều hướng vào bên trong. Mỗi cấp bậc, mỗi vùng tánh nào nhiều sẽ quyết định cái tầng xã hội của họ. Có những người tối ngày giận dữ, nóng nảy, tham lam,…là do họ đẩy điện từ của tánh này theo chiều hướng âm.
NỘI TÂM LÀ GÌ?
Trong cấu trúc con người,Thân là yếu tố hữu hình, là vật chất. Còn những yếu tố vô hình bên trong của chính họ, là phi vật chất, bao gồm Tâm – Tánh – Tình (theo cách gọi dân gian) – chính là NỘI TÂM của con người chúng ta.
=> Nội tâm của con người chính là Tâm – Tánh – Tình. Hay còn gọi là nội tâm con người bao gồm Sự chân thật nơi chính họ – 16 tánh người – và lớp Tình của con người.
THUẬT NGỮ CẦN NẮM
Khi thông điệp truyền tải chạm tới lớp Tình - dùng Tình để ĐỐI ĐÃI.
Khi thông điệp truyền tải chạm tới lớp Tánh - dùng Tánh để PHÂN TÍCH – PHÂN BIỆT.
Khi thông điệp truyền tải chạm tới lớp Tâm - dùng Tâm để ĐÓN NHẬN.
Như vậy, khi đối diện với 1 thông điệp, có những người họ dùng Tình – dùng cảm xúc để đối đãi; còn có một số người khi đối diện với 1 thông điệp được truyền tải họ có một tư duy phân tích – phân biệt rất là rõ nét. Cũng có một số người chỉ có dùng Tâm để đón nhận.
Đây là 3 trạng thái cảm xúc của nội tâm đặc biệt: dùng Tâm để đón nhận – dùng Tánh để phân tích phân biệt – dùng Tình để đối đãi. Nó sẽ quyết định mức độ làm chủ nội tâm của mỗi người.
Quan sát bản thân, hay những người xung quanh, chỉ cần chạm vô lớp Tình là chúng ta cảm nhận được là dùng Tình để đối đãi.
Còn nếu chạm đến lớp Tánh đó là khi có những sự việc, khi vừa đón nhận thông điệp thì lập tức phân tích phân biệt nó, suy nghĩ nhiều khía cạnh khác nhau – lúc này chúng ta đang dùng Tánh.
Ví dụ: ai đó khen mình xinh đẹp, bản thân mình thấy thích quá, rất vui – đây chính là đang dùng cảm xúc của bản thân, dùng Tình để đối đãi với thông điệp truyền tải tới. Nhưng khi ai đó khen mình xinh đẹp quá mà bản thân mình hỏi lại là “đâu, đẹp chỗ nào đâu, thấy da đẹp hay khuôn mặt đẹp, nói nghe xem nào?” – thì chính là đang dùng Tánh để phân tích phân biệt coi tại sao người ta khen mình xinh đẹp vậy.
Còn khi có người khen mình “sao dạo này thấy xinh đẹp quá!” thì bản thân chỉ dừng ở biết là người đó nói mình xinh đẹp thôi và ngừng lại, không có bất kỳ suy nghĩ nào nữa hết, không có cảm xúc nào phát sinh thì có nghĩa là bản than mình đang dùng Tâm để đón nhận.
⇨ Con người chúng ta dùng Tâm để đón nhận – hay dùng Tánh để phân tích phân biệt – hoặc dùng Tình để đối đãi thì nó sẽ quyết định mức độ làm chủ nội tâm của mỗi người.
- Khái niệm “Làm chủ nội tâm”:
+ Làm chủ tức là chủ động và chịu trách nhiệm.
+ Làm chủ nội tâm là chủ động lựa chọn chịu trách nhiệm với lựa chọn bên trong nội tâm để làm chủ hoàn cảnh bên ngoài.
- Trong cuộc sống, con người cần có sự chủ động chọn lựa một cách linh hoạt cả 3 trạng thái của nội tâm: dùng Tâm để đón nhận – dùng Tánh để phân tích phân biệt – dùng Tình để đối đãi để phù hợp với từng đối tượng, hoàn cảnh.
Không phải trường hợp nào cũng dùng tâm để đón nhận hay dùng tình để đối đãi hoặc chỉ dùng tánh để phân biệt: ví dụ như khi thấy trộm vào nhà khuân đồ đạc nhà mình đi mà chỉ dùng Tâm để đón nhận, không khởi phát bất kỳ điều gì thì không phù hợp.
Hay khi ai đó, đặc biệt là người thân khen mình, nói lời yêu thương với mình mà mình cũng chỉ đón nhân – biết là họ đang khen vậy thôi, không phản ứng gì hết thì dễ khiến quan hệ trở nên khó xử, lâu ngày sẽ trở nên xa cách,…
Trong công việc, hay học tập rèn luyện, nếu chỉ dùng tâm để đón nhận – biết là nó như vậy thôi, không phân tích phân biệt để đánh giá đúng sai – nên hay không nên thì không thể mang lại kết quả, không thể có sự tiến bộ.
Khi có 1 điều bất như ý đến như là bị chỉ trích, chê bai, .. mà cứ dùng tình để đối đãi thì rất dễ khiến bản thân có cảm xúc tiêu cực…
TÁNH KHÔNG NỘI TÂM
Khi con người tiếp nhận thông điệp truyền tải bằng sự chân thật nơi chính mình và không dính mắc vào lớp Tánh và lớp Tình của con người, thì khi đó chúng ta sẽ khởi tạo Tánh Không của nội tâm chúng ta sẽ đạt được trạng thái an vui thanh tịnh.
- Chúng ta hình dung: 1 thông điệp truyền tải vào bên trong con người thì sẽ chạm vào lớp Tình đến lớp tánh và vào đến lớp Tâm.
Hay nói cách khác, cái ý nghe hay cái ý thấy nó dính vào lớp tánh và lớp tình của con người để nhìn nhận về 1 thông điệp nào đó truyền tải đến, bản chất như 1 ánh nắng mặt trời chiếu qua 1 khe cửa, ánh nắng này xuyến suốt và chiếu qua khe cửa, quan sát sẽ thấy có bụi phát sinh, ẩn trong ánh nắng. Nhưng ánh nắng vẫn luôn chiếu xuyên suốt đến nơi cần chiếu, đến cái đích – như là mặt sàn.
Lúc này, cái bụi trong ánh nắng là đại diện cho lớp tánh và lớp tình. Nếu bụi này mà luân chuyển nhiều quá thì ánh sáng của nắng bị cản trở, nó không được chiếu trong suốt. Vậy thì khi cái nghe của con người mà bị dính mắc vào lớp tánh, lớp tình của con người thì không còn cái NGHE CHÂN THẬT nữa; cái thấy mà bị dính vào lớp tánh, lớp tình của con người thì không còn cái THẤY CHÂN THẬT nữa.
Là bởi vì cái ý thấy – ý nghe thì chỉ biết là đang thấy – đang nghe như vậy thôi, thông điệp truyền tải vừa đến nó, nó chỉ biết vậy thôi, không có tánh không có tình của con người lắp vào thì đó được gọi là cái NGHE CHÂN THẬT nhất – cái THẤY CHÂN THẬT nhất. Khi đạt được cái NGHE CHẬT THẬT – THẤY CHÂN THẬT lúc đó chính là trạng thái TÁNH KHÔNG của nội tâm.
Ví dụ: khi nghe ai đó nói mình bị “KHÙNG” mà mình chỉ biết là nghe vậy thôi, không có khởi cảm xúc gì, không có sự phân tích phân biệt hay suy nghĩ gì phát sinh – đó chính là đang NGHE CHÂN THẬT – là đạt đến trạng thái TÁNH KHÔNG của nội tâm, tâm không bị loạn.
Nghĩa là: khi nghe ai đó nói mình bị khùng thì lúc đó chỉ biết nghe vậy thôi, không có bất kì điều gì xảy ra, là dùng sự chân thật nơi chính mình để đón nhận thông điệp truyền tải là “bị khùng” – lúc này nghe cái từ “bị khùng” nó không có bất kỳ ý nghĩa gì, nó chỉ biết là nghe thấy cái từ “khùng” đó thôi, cái từ “khùng” này không có ý nghĩa gì hết, không biểu đạt gì hết, nghe từ “khùng” cũng như nghe bất kỳ từ nào khác, chỉ là 1 thông điệp thôi, ngay giây phút đó tâm không bị loạn lên - không bị dính vào tánh và tình; sự chân thật bên trong con người nó chỉ biết như vậy thôi thì đó chính là đạt trạng thái tánh không của nội tâm.
Hoặc khi 1 người cầm cây bút lên hướng về mình và hỏi “đây là gì?” mà mình trả lời “là cây bút” thì không đạt được trạng thái tánh không nội tâm, vì khi đó bản thân đã dùng tánh để phân biệt vật đó là gì rồi.
Cũng tình huống như trên, khi một người cầm cây bút lên hướng về mình và hỏi “đây là gì” mà bản thân chỉ dừng ở việc nhìn thấy cái vật người đó cầm thôi, không khởi lên bất kỳ suy nghĩ gì khác, không phản ứng lại với câu hỏi của người đó tức là dừng ở việc thấy như vậy thôi – là cái thấy chân thật nơi chính mình, đó là trạng thái tánh không của nội tâm.
Tánh không nội tâm khác với vô cảm: Người vô cảm là đang dùng cái tưởng của mình đặt vào đâu đó ở 1 nơi khác (nghe như không nghe, thấy như không thấy) nên thờ ơ với mọi việc đang diễn ra quanh mình. Còn tánh không của nội tâm là dùng sự chân thật nên cái tưởng tự dừng lại. Tánh không là biết cái gì đang xảy ra, biết nó đang tồn tại như vậy nhưng không có tưởng phát sinh – dùng sự chân thật nơi chính mình để đón nhận thông điệp truyền tải.
Tóm lại, một thông điệp truyền tải đến mà con người nghe chỉ biết là nghe, thấy chỉ biết là thấy, không khởi lên bất kỳ điều gì – không bị dính vào lớp tánh hay lớp tình, chỉ dùng sự chân thật nơi chính mình để đón nhận thông điệp, thì ngay giây phút đó đạt được trạng thái tánh không của nội tâm.
Tánh không nội tâm là vô hình vô tướng, chỉ có thể nhận được hay không nhận được, không hiểu được, “nóng lạnh tự biết” – chỉ bản thân mỗi người tự biết mình có nhận được tánh không nội tâm hay chưa. Người nhận được tánh không thì tính không được khởi tạo.
Khi đạt được trạng thái tánh không cũng tức là tâm cảnh tách nhau ra. Dùng sự chân thật để đón nhận thông điệp truyền tải – nghe chỉ biết là đang nghe, thấy chỉ biết là đang thấy, biết mình đang biết, không không dính mắc vào tánh, con người đơn giản đạt được sự an vui, nhẹ nhàng.
- Ứng dụng tánh không nội tâm: Khi vấn nạn đến, khởi tạo tánh không thì vấn nạn tan ra, và khi đó chúng ta nhận được trạng thái an vui. Con người khi dính mắc vào lớp tánh, lớp tình thì tâm dễ loạn, trong giây phút hoảng loạn thì sẽ xảy ra nhiều vấn đề. Vậy nên, phát sinh vấn đề thì mình khởi tạo tánh không cho nó khỏe, không có tánh không thì bị dính mắc và khi đó thì sân si xuất hiện. Lúc đó mà dùng tư duy thì nặng nề, khởi tánh không xong nó sẽ buông luôn. Ví dụ như trong kinh doanh những tin đồn nặng nề xuất hiện,một đêm ngủ dậy mất hết tài sản,… khởi tạo tánh không thì mình nhẹ nhàng hơn và xử lý công việc tốt hơn.
=> Khi bất như ý tới thì mình dùng tánh không để tách tâm cảnh và mình sáng suốt hơn thì khi đó đứng trên vấn đề và biết cách xử lý. Để khởi tạo tánh không, áp dụng phương pháp Nhất tự thiền của nhà Phật: Buông – Dừng – Thôi – Dứt để tách tâm với cảnh
VI BIỆT NGHIỆP.( vi là nhỏ, biệt là đặc trưng, khác biệt)
Là những nghiệp đặc biệt, ví dụ như chân thật của mình, có nhiều người có nhiều ngón chân, ngón tay, nét đặc trưng riêng của từng người thì nó gọi là vi biệt nghiệp (nghiệp quả).
3 Khối Đức:
Khối ác đức:
Là khối điện từ âm chứa trong vỏ bọc TÁNH NGƯỜI
Được tích tạo thông qua việc làm cho người khác đau khổ.
Ác đức tích nhiều → việc bất như ý xảy ra thường xuyên.
Khối phước đức:
Là khối điện từ dương chứa trong vỏ bọc TÁNH NGƯỜI
Được tích tạo thông qua việc làm cho người khác vui vẻ, thỏa mãn tham và tưởng về TÀI - SẮC – DANH - THỰC - THÙY
Người có phước đức đơn giản có cuộc sống đầy đủ về vật chất
Tổn phước đức do: oán trách, ngạo mạn, tà dâm, sân si
Phụ nữ dễ mất phước do oán trách, đàn ông nhanh mất phước do oán trách
Phụ nữ nhanh mất phước do ngạo mạn, đàn ông dễ mất phước do ngạo mạn
“Phước đức như một núi tiền, một que diêm cũng có thể đốt cháy”
Khối công đức
Là khối điện từ cân bằng chứa trong vỏ bọc TÁNH CHÂN THẬT
Tích từ việc giúp người khác nâng tầng bậc trí tuệ → Bậc 3.
Người có công đức đơn giản có cuộc sống an vui thanh tịnh, đơn giản để khai mở trí tuệ
Bôi đen công đức do chấp kiến (Kiến là cố chấp,chấp vào cái cố chấp)
Công đức như một núi vàng, khó đốt cháy nhưng dễ bị bôi đen
TỔNG NGHIỆP:
Tổng tất cả những suy nghĩ hành động ở hằng hà sa số đời
Nói cách khác TỔNG NGHIỆP là:
Huân tập của NGHE THẤY NÓI BIẾT thông qua lớp tánh và lớp tình của con người qua hằng hà sa số đời được chứa trong TÀNG THỨC (tiềm thức)
Có 3 loại TỔNG NGHIỆP là:
Tổng nghiệp THỨC là: tổng những kiến thức, tri thức, hiểu biết được huân tập qua hằng hà sa số đời.
Tổng nghiệp DUYÊN là: tổng tất cả những nhân duyên giữa con người ở hằng hà sa số đời.
Tổng nghiệp QUẢ là: tổng tất cả những kết quả cuộc sống con người đã trải qua trong hằng hà sa số đời.